Hệ thống hoá triết học: Vào thế kỷ XVII, một kiểu trình bày khác của triết học ra đời nhờ công của hai nhà triết học nổi tiếng là Descartes và Spinoza.Tuy nhiên, càng chung chung, càng ít cô đọng, lại càng thuận lợi cho việc học các quy tắc thực hành.Nó thường đưa chúng ta đến những hoạt động làm thay đổi thực tại, làm cho cuộc sống của chúng ta tốt đẹp hơn.Phần này rất cần thiết đối với những độc giả đã đọc hết cả cuốn sách.Điều này giải thích tại sao các tác giả thường thay thế một từ đơn lẻ bằng một cụm từ khá chi tiết khi muốn diễn đạt dễ hiểu.Ý kiến này hiếm khi được nêu rõ trong các cuộc hội thoại, cho dù Socrates đã đề cập đến nó trong tác phẩm Apology (Lời tạ tội) khi ông khẳng định rằng cuộc sống không có kiểm soát thì không đáng sống.Sau khi đã thống nhất được thuật ngữ với tác giả và nắm vững những nhận định, lập luận mà tác giả trình bày, bạn nên kiểm tra những gì mình tìm thấy bằng cách tự đặt cho mình một số câu hỏi.Mỗi câu hỏi thường có từ hai câu trả lời trở lên và khi đó, các câu trả lời phải được sắp xếp theo từng cặp đối nghịch.Khía cạnh ngữ pháp là phần xử lý từ ngữ, khía cạnh logic là bước xác định ý nghĩa hay nói một cách chính xác là xác định các thuật ngữ.Cuốn sách nào không đảm bảo hai yếu tố này thì chỉ là một mớ bòng bong khó đọc.
